XUAN-2023 - page 36

XuânQuýMão
37
này, Nam kỳ có tất cả 20
tỉnh, gồm: Tây Ninh, Thủ
Dầu Một, Biên Hòa và Bà
Rịa (bốn tỉnh miền Đông);
Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ
Tho, Gò Công, Tân An,
Vĩnh Long, Bến Tre, Trà
Vinh và Sa Đéc (chín tỉnh
miền Trung); Châu Đốc, Hà
Tiên, Long Xuyên, Rạch
Giá, Cần Thơ, Sóc Trăng
và Bạc Liêu (bảy tỉnh miền
Tây). Ngoài ra còn có ba TP
Sài Gòn, Chợ Lớn và Cap
Saint Jacques tức Vũng Tàu,
Côn Đảo không thuộc tỉnh
nào. Năm 1905, xóa bỏ TP
Cap Saint Jacques chuyển
thành tỉnh Bà Rịa. Trụ sở
của thống đốc Nam kỳ đặt
tại Sài Gòn (về sau gọi là
dinh Gia Long).
Như vậy, từ cuối thế kỷ
19 trung tâm các tỉnh, TP
ở Nam kỳ đã hình thành
những đô thị hành chính,
công trình tiêu biểu là
“tòa bố” (dinh thự làm
việc của chủ tỉnh - chef de
province). Cùng với đó là
quy hoạch đô thị theo kiểu
phương Tây: Đường phố
theo “ô bàn cờ”, vỉa hè
trồng cây xanh, xây dựng
hạ tầng điện, nước, cống
ngầm… Cảnh quan các
đô thị Nam Bộ bên cạnh
những ngôi nhà cổ truyền,
các kiến trúc tôn giáo, tín
ngưỡng truyền thống bắt
đầu xuất hiện những kiến
trúc mới như các tòa nhà
công sở, nhà thờ, công
trình văn hóa như rạp
chiếu phim, rạp hát… Bên
cạnh những ngôi biệt thự
kiểu Pháp của công chức
người Pháp là nhiều biệt
thự kiến trúc kết hợp Đông
Tây - được coi là một đặc
trưng của tầng lớp khá giả
ở Nam kỳ.
Đặc biệt, trong hồi ký
của Paul Doumer (1857-
1932, làm Toàn quyền
Đông Dương 1897-1902)
đã ghi nhận tính chất
thương nghiệp sớm phát
triển của Nam kỳ.
“Một
trong những cơ sở quan
trọng nhất trong một làng
ở Nam kỳ là cái chợ, ở
Nam kỳ chưa có cái chợ
nào có mái che trước khi
người Pháp đến (tức là
nhà lồng chợ)... Làng nào
3
Quá trình hình thành
các đô thị ở Nam Bộ trải
qua hai giai đọan.
Nửa đầu thế kỷ 19 là
giai đoạn hoàn chỉnh các
“thành trì” chính trị - quân
sự có từ trước đó để trở
thành các trung tâm hành
chính - chính trị khi triều
Nguyễn đã thiết lập chính
quyền trên cả nước. Đô thị
trung tâm, lớn nhất và quan
trọng nhất lúc này ở Nam
Bộ là Gia Định thành. Diện
mạo các đô thị thời này
chưa thoát khỏi cấu trúc đô
thị phong kiến, từ các công
trình xây dựng đến cấu trúc
dân cư và đời sống đô thị.
Từ nửa sau thế kỷ 19
đến đầu thế kỷ 20: Các
trung tâm hành chính -
chính trị của nhà nước
phong kiến chuyển biến
dần thành các đô thị -
TP kiểu châu Âu. Bộ máy
chính quyền có sự thay
đổi cơ cấu, tổ chức… từ
đó diện mạo các đô thị
cũng thay đổi theo việc
xác định vị trí chức năng
của nó. Từ cảnh quan
đô thị đến hạ tầng cơ sở,
từ cấu trúc kinh tế đến
thành phần và nguồn gốc
dân cư, sinh hoạt và đời
sống đô thị có sự biến đổi
rõ rệt. Việc hình thành
tầng lớp thị dân tuy không
quá tách biệt nhưng có lối
sống tương đối khác biệt
so với lối sống nông dân -
nông thôn truyền thống. 
Lịch sử vùng đất Nam Bộ
từ thế kỷ 17, 18 gắn liền
với quá trình hình thành
cư dân Nam Bộ. Quy tụ từ
tứ xứ, từ nhiều nguồn gốc
xuất thân, nhiều tộc người,
lưu dân đến vùng đất này
trong những thời gian khác
nhau với hoàn cảnh, lý do
khác nhau nhưng đều có
một cách ứng xử chung với
tự nhiên và xã hội. Đó là
lối sống “thuận thiên”, linh
hoạt trong hoạt động khai
thác môi trường tự nhiên.
Trong quan hệ xã hội là sự
nhường nhịn, chia sẻ, luôn
giúp đỡ nhau, mạnh dạn
tiếp nhận những yếu tố
kỹ thuật mới trong làm ăn
kinh tế; cởi mở trong giao
cũng tự hào về chợ làng
mình chẳng khác gì tự
hào về đình làng vậy. Tuy
nhiên, đây không chỉ là do
mong muốn làm đẹp làng
mà người ta xây chợ, cũng
không phải do muốn chỗ
tốt hơn cho những người
bán hàng. Muốn ngồi trong
chợ thì phải trả tiền (thuế
chợ) và do chợ An Nam có
nhiều người mua bán nên
làng thu được từ chợ một
khoản thuế lớn”.
Paul Doumer đi khắp
Nam kỳ và nhận xét rằng
trong thực tế (lúc bấy giờ)
chỉ có hai TP ở Nam kỳ
xứng với tên TP là Sài Gòn
- TP hành chính, hàng hải
và quân sự, do người Pháp
mới tạo lập như một đô thị
phương Tây; và Chợ Lớn
- TP thương mại và công
nghiệp đã tồn tại từ trước
khi người Pháp tới.
“Mọi
hoạt động của Nam kỳ đều
đổ dồn về hai TP trung
tâm gần như nối liền với
nhau này. Mặc dù tách biệt
nhau về mặt hành chính,
Sài Gòn và Chợ Lớn ngày
càng gắn bó với nhau về
mặt vật chất và trở thành
một TP duy nhất”.
Từ khi khởi lập đến nay,
vị trí của các đô thị NamBộ
luôn ở trung tâmcủamạng
lưới giao thông đường thủy
từng khu vực, tận dụng sự
thuận tiện của hệ thống sông
ngòi, kênh rạch, đường biển
và chế độ thủy triều…Từ
những bến - chợ đã hình
thành các thị tứ rồi phát triển
thành cảng thị như Sài Gòn,
CùLao Phố, Mỹ Tho, Ba
Vát (BếnTre), Hà Tiên…
sau này cóCầnThơ, Long
Xuyên, SaĐéc…Giữa các
tỉnh hầu như đều có ranh giới
tự nhiên là những dòng sông
lớn nhỏ, trên trục lộ chính cứ
quamột bến phà là vào địa
phậnmột TP lớn trung tâm
một tỉnh. Có thể nói tính chất
của đô thị NamBộ là “đô thị
sông nước”, người ta biết đến
đô thị không chỉ là những
thành trì, các công trình hành
chính hay tôn giáomà còn
được biết đến vì những cảng
thị (sông, biển) nổi tiếng với
sự phong phú của hàng hóa,
sự giao lưu, trao đổi buôn bán
trùmật, sự đông đúc, đa dạng
của cư dân.
lưu văn hóa và lối sống…
Tất cả đã làm cho các đô
thị ở Nam Bộ thành một
tập hợp đa dạng về kinh tế
và văn hóa.
Những yếu tố này góp phần
làmnhạt đi tính chất “chính
trị” củamột đô thị hành
chính, đồng thời làmcho các
đô thị ởNamBộ tuy vẫn là
trung tâmcủamột vùng nông
thôn nhưng không bị “nông
thôn hóa”mà ngược lại, có
sự lan tỏa và ảnh hưởng kinh
tế - văn hóa đến những vùng
xung quanh.
Một hiện tượng phổ biến
tại Nam Bộ mà không thấy
xuất hiện ở miền Trung
hay miền Bắc, đó là ở
nhiều tỉnh có huyện Châu
Thành, đó là đơn vị hành
chính bao gồm hoặc ở sát
đô thị trung tâm của tỉnh.
Trong quá trình phát triển,
huyện Châu Thành là nơi
được “đô thị hóa” trước
nhất và nhanh nhất. Hiện
tượng này phần nào phản
ánh ảnh hưởng lớn của đô
thị với vùng nông thôn.
Phần lớn đô thị ở nước
ta ra đời vào thời kỳ phong
kiến là do nhà nước khi có
nhu cầu lập kinh đô hay
trung tâm tỉnh, thành thì tìm
vị trí, xây dựng công sở, hình
thành đô thị do nhà nước
quản lý. Trong lịch sử, các
kinh đô như Hoa Lư, Thăng
Long, Phú Xuân... thường
nặng chức năng hành chính
và quân sự. Còn trung tâm
hành chính của các trấn ở
NamBộ từ thời Nguyễn đã
là những đô thị sầm uất phát
triển thương mại, gắn liền
với đường sông và đường
biển. Do vậy sự hình thành
và phát triển các đô thị
ở NamBộ có phần khác biệt
so với các vùng, miền khác,
đấy là những trung tâm
hành chính - quân sự nhưng
không thể thiếu yếu tố là
trung tâm kinh tế và yếu
tố này trong quá trình phát
triển ngày càng nổi bật.
Với quá trình hình
thành và những đặc điểm
như vậy, các đô thị - TP
ở Nam Bộ hiện nay còn
lưu giữ nhiều di sản đô thị
quý giá. Đó là cảnh quan
đô thị được quy hoạch
sớm và khá hoàn thiện,
những công trình kiến trúc
độc đáo, công trình công
nghiệp, công trình dân sinh
phản ánh thời kỳ thuộc địa.
Bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa đã tạo nên nét đặc
trưng độc đáo, khai thác
giá trị kinh tế của những
di sản văn hóa của các đô
thị ở Nam Bộ là một trong
những cách tăng thêm
nguồn vốn xã hội cho sự
phát triển bền vững.•
TÍNHCHẤT CỦA ĐÔTHỊ NAMBỘLÀ “ĐÔ
THỊ SÔNGNƯỚC”, NGƯỜI TA BIẾT ĐẾN
ĐÔTHỊ KHÔNGCHỈ LÀ NHỮNG THÀNH
TRÌ, CÁCCÔNG TRÌNHHÀNHCHÍNHHAY
TÔNGIÁOMÀ CÒNĐƯỢC BIẾT ĐẾNVÌ
NHỮNGCẢNG THỊ (SÔNG, BIỂN).
1...,26,27,28,29,30,31,32,33,34,35 37,38,39,40,41,42,43,44,45,46,...62
Powered by FlippingBook